Cho đến nay các sử gia đều tin rằng tấm hình nổi tiếng một thời của Eddie Adams đã kết liễu cuộc đời binh nghiệp của tướng Nguyễn Ngọc Loan.Không
sai, nhưng chỉ đúng một nửa. Chính nhiếp ảnh gia đoạt giải Pulitzer của
AP này đã viết trong tuần báo TIME (1): “Ông tướng giết thằng Việt
Cộng; tôi giết ông tướng bằng máy chụp hình của tôi”. Đó là tấm hình
chụp tướng Loan thản nhiên hành quyết một tù binh cộng sản bị còng tay
sau lưng, mặt mếu máo. Một hành vi sát nhân ghê tởm gây chấn động toàn
thế giới. Mặc dù sau đó Adams đã thú nhận: “Người ta tin vào hình ảnh,
nhưng hình ảnh cũng nói dối, cho dù không có sửa đổi gì. Chúng chỉ là
những nửa sự thật”. Dẫu vậy nhưng nó cũng đã đánh dấu khúc ngoặt quan
trọng của cuộc chiến: Dư luận phản chiến nở rộ tại Hoa kỳ đã khiến Tổng
thống Johnson mất niềm tin vào một chiến thắng quân sự tại miền Nam Việt
Nam. Và cuộc thương thảo với Bắc Việt và Mặt Trận Giải Phóng Việt Nam
(MTGPMN) đã diễn ra sau đó dưới triều đại Nixon như giải pháp duy nhất
đem lại hòa bình.
Đằng sau tất
cả những sự kiện lịch sử ấy là chuyển động âm thầm nhưng có ảnh hưởng
quyết định của tình báo chiến lược. Cơ quan CIA (Tình Báo Trung Ương)
Hoa kỳ và đối tác VNCH ở cấp cao đã phải đối mặt với những tình huống
gây ra mâu thuẫn trầm trọng giữa một bên là MACV (Bộ Tư Lệnh Quân Sự
Mỹ), CIA, Tòa Đại Sứ Hoa Kỳ và bên kia là Bộ Tổng Tham Mưu QLVNCH và
Tổng Nha Cảnh Sát Quốc Gia khi ấy do Thiếu tướng Nguyễn Ngọc Loan nắm
giữ. Bối cảnh chung là cuộc tấn công bất ngờ của Việt Cộng – khi ấy vẫn
được báo chí Mỹ coi là MTGPMN, tách biệt với Cộng Sản Bắc Việt (CSBV),
một huyền tích chỉ được giải ảo sau 1975 – trong dịp hưu chiến Tết Mậu
Thân (tháng 1, 1968).
Nguyễn Ngọc Loan: Ông là Ai?
Tướng Nguyễn
Ngọc Loan, hỗn danh Sáu Lèo, sinh năm 1930 tại Huế. Chị cả của ông, bà
Bích Hồng, là phu nhân Đại tá Bác sĩ Văn Văn Của, nguyên Đô trưởng thành
phố Sài Gòn (1965-68) (2). Ông học trường Trung học Albert Sarraut và
đậu Tú tài Toán toàn phần rồi bị động viên Khóa 1 Sĩ quan Trừ bị (Nam
Định). Thiếu úy Loan theo học Trường Sĩ quan Không quân Pháp Salon de
Provence năm 1953 rồi thực tập hoa tiêu khu trục phản lực tại căn cứ
Meknes, Maroc, trở thành phi công khu trục phản lực đầu tiên của Không
lực VNCH. Về nước, ông được bổ nhiệm Phi đoàn trưởng Phi đoàn 2 Quan
sát. Được thuộc cấp nể trọng nhưng ông không được các sĩ quan Cố vấn Hoa
kỳ ưa thích vì ông hay đả kích lề lối làm việc máy móc của họ.
Năm 1964, ông
Loan thăng cấp Đại tá và được bổ nhiệm “Tư lệnh Phó Không Quân VNCH”
dưới quyền Tư lệnh, Thiếu tướng Nguyễn Cao Kỳ. Năm 1965, vinh thăng
Chuẩn tướng, ông tham dự chiến dịch không kích Bắc Việt trong khu vực
Đồng hới – Vĩ tuyến 17 (Bến Hải).
Những năm kế tiếp, tướng Loan được đề cử đảm nhiệm 3 chức vụ an ninh, tình báo quan yếu của VNCH:
- Đặc ủy trưởng, Phủ Đặc Ủy Trung Ương Tình Báo
- Tổng Giám Đốc Cảnh Sát Quốc Gia, và
- Cục trưởng Cục An Ninh Quân Đội.
Lòng tận tụy
với trách nhiệm nặng nề và tính “bất cần đời” của tướng Loan, coi cái
chết “như pha” tạo cho ông một cá tính gồ ghề, bề ngoài tưởng như ngổ
ngáo, hãnh tiến, nhưng thật ra ông là con người đầy cảm tính và “cận
nhân tình”, được cấp dưới nể trọng và bạn hữu chí tình thương mến. Thỉnh
thoảng gặp ông tại Phủ Thủ Tướng (Ủy Ban Hành Pháp Trung Ương –
UBHPTƯ), ông cười nói xuề xòa, moa moa, toa toa, miệng không ngớt chửi
thề: đ.. cụ, đ.. cụ.
Tuy nhiên,
Định Mệnh dường như đã an bài cho ông một số phận khắc nghiệt. Chỉ nội
trong ngày 31 tháng 1 năm 1968, sự nghiệp của ông được kể như chấm dứt
vì một quyết định làm cho người Mỹ coi ông là kẻ phản bội. Mặt khác, có
thật là bức hình của Eddie Adams chụp cảnh ông xử bắn tên đặc công Lém ở
đường Ấn Quang ngày 4 tháng 2, 1968 mới là nguyên nhân chính? Sự thực
không phải như vậy.
Hoa kỳ đi đêm với MTGPMN
Kề từ tháng 2
năm 1967, Tòa Đại sứ Hoa kỳ ở Sài Gòn đã có những tiếp xúc sơ bộ với một
số cán bộ cấp thấp thuộc MTGPMN. Sau đó,với sự trợ giúp của Tình báo
Hải ngoại Pháp (SDECE, Service de Documentation et de Contre-Espionage),
cộng đồng tình báo Mỹ ở Việt Nam đã bắt tay được với những nhân vật
trọng yếu của Cục R (Trung Ương Cục miền Nam) và MTGPMN như: Nguyễn Hữu
Thọ, Nguyễn Thị Bình, Dương Quỳnh Hoa, Trần Văn Trà, Đồng Văn Cống, Trần
Bửu Kiếm và Trần Bạch Đằng, Cục trưởng Cục R (3).
Sau việc hộ
tống êm thắm vợ con Trần Bửu Kiếm và Trần Bạch Đằng ra vùng “giải phóng”
an toàn, Sứ quán Hoa kỳ móc nối với Nguyễn Thị Bình (qua trung gian LS
Đinh Trịnh Chính, Bộ trưởng Chiêu Hồi, Dân Vận VNCH) toan tính thành lập
chính phủ “liên hiệp hòa giải dân tộc” với 2 thành phần: MTGPMN và
chính quyền VNCH.
Tất cả những
tiếp xúc “đi đêm” nói trên đều không lọt qua con mắt của tướng Loan,
Tổng Giám Đốc Cảnh Sát Quốc Gia. Tướng Loan ra lệnh cho S-6 (Cảnh Sát
Đặc Biệt) tống giam một số nhân vật MTGPMN khi ấy đang được Sứ quán Hoa
kỳ bảo vệ tại các “nhà an toàn” (safe house) ở ven đô Sài Gòn
và Tây Ninh. Sứ quán Hoa kỳ gây áp lực với tướng Nguyễn Cao Kỳ, chủ tịch
UBHPTƯ, phải thả lập tức các sứ giả MTGPMN và yêu cầu các cơ quan an
ninh VNCH không được phép xâm nhập các nhà an toàn và những khu vực
dành riêng cho nhân viên ngoại giao Hoa kỳ trên khắp lãnh thổ VNCH.
Mặt khác, Tổng
thống Lyndon B. Johnson được Đại sứ Mỹ Ellsworth Bunker bảo đảm rằng
Sài Gòn là thủ đô an toàn và Tòa Đại sứ Hoa kỳ ở Saigon là khu vực an
ninh 100% không bao giờ bị tấn công vì đây sẽ là địa điểm mật đàm đã
được thỏa thuận giữa Hoa kỳ và MTGPMN.
Tòa Đại sứ Hoa kỳ rơi vào tay Đặc Công CSVN
Trong trận mở
màn Chiến dịch Tổng Tấn Công – Tổng Khởi Nghĩa của CSVN, một biến cố ít
ai biết đến, kể cả báo chí Mỹ, là Tòa ĐS Hoa kỳ đường Thống Nhất đã rơi
vào tay Đặc công CS ngay những phút đầu. Đó là hậu quả của việc tướng
Loan đã cho rút 2 trung đội Cảnh Sát Dã Chiến bảo vệ bên ngoài TĐS Mỹ về
tăng cường cho Dinh Độc Lập.
Diễn tiến: Tổ
C-10 gồm 18 tên đặc công CS thuộc Tiểu đoàn Đặc công 276 của Đặc Khu Ủy
Sài gòn – Chợ Lớn đã xuất phát lúc 1 giờ đêm 31 tháng 1, 1968 từ tiệm
Phở Bình đường Yên Đổ, góc Hai Bà Trưng, trên 1 xe van mầu trắng. Hai
giờ sáng, xe dừng trước cửa sau Tòa ĐS đường Mạc Đĩnh Chi lúc đó chỉ có
một tiểu đội Quân Cảnh Mỹ giữ an ninh phía trong. Bọn đặc công CS chia
làm 6 mũi khai hỏa tấn công. Chúng dùng bộc pha, B-40 và AK-47 báng xếp
triệt hạ vọng gác của Cảnh sát QG đặt giữa Lãnh sự và tòa nhà chính.
Nhưng vọng gác này đã bỏ trống từ chiều hôm trước cùng lúc với hai trung
đội Cảnh Sát Dã Chiến, theo lệnh của tướng Loan.
Hai tên đặc
công tấn công vào cửa chính Tòa ĐS, tức thì bị QC Mỹ hạ sát. Sau đó QC
Mỹ rút vào trong và dùng radio cầu cứu. Hai tên đặc công khác dùng bộc
pha phá thủng một lỗ lớn tường rào góc đường Thống Nhất – Mạc Đĩnh Chi,
giúp cho toàn bọn C-10 tràn vào vườn hoa rồi tiến chiếm Lầu 1 và Lầu 2
trong khi QC Mỹ rút lên Lầu 3 cố thủ. Lầu 2 Đại Sứ quán Mỹ là Tổng Hành
Dinh Tình Báo Chiến Lược của Hoa kỳ ở Đông Nam Á. Toàn bộ tài liệu mật
mã “Tuyệt Mật” của CS Bắc
Việt mà Mỹ thủ đắc được từ 1961, gồm hồ sơ chính sách, cương lĩnh, nghị
quyết tấn công quân sự miền Nam, cùng các tài liệu khác liên quan đến
cuộc chiến, đều được lưu trữ trong các tủ và két sắt Diebolt nặng trên 1
tấn (4). Bốn tên đặc công CS cố thủ Lầu 2 ra sức cậy phá, tháo gỡ 6 ổ
khóa của 12 két sắt nhưng vô hiệu.
Mười hai giờ
khuya (12 giờ trưa Washington, D.C.), tại trụ sở CIA, Giám Đốc Richard
Helms đang khoản đãi ông William Colby, tân Giám đốc CORDS (5) Việt Nam.
Giữa tiệc, một thiếu tá tùy viên hối hả xin gặp để trình một công điện
Hỏa Tốc từ MACV: “Trụ sở CIA và Sứ quán Hoa kỳ Saigon đã lọt vào tay đặc
công MTGPMN từ 1 giờ sáng 31 tháng 1, 1968”. Cùng lúc, Tòa Bạch Ốc cũng
nhận được công điện hỏa tốc: “Saigon đang bị 5 tiểu đoàn địa phương
MTGPMN tấn công ồ ạt. Tòa ĐS ở trung tâm thủ đô thất thủ. Bộ Tư Lệnh
MACV và Bộ TTM/QLVNCH tràn ngập khói súng, chống trả yếu ớt vì bị bất
ngờ”.
Giám đốc CIA
Richard Helms đọc công điện 3 lần vẫn cả quyết với quan khách: “Đây là
những ‘điều giả tưởng’ không thể nào có thể xẩy ra được với Hoa kỳ”.
Sáu giờ sáng,
một đại đội xung kích thuộc Sư đoàn Không kỵ 101 được trực thăng vận đổ
xuống từ nóc Tòa ĐS, đột nhập Lầu 3 rồi Lầu 2, cận chiến với 12 đặc công
CS, tiêu diệt toàn bọn và giải tỏa Tòa ĐS — biểu tượng của sức mạnh Hoa
kỳ tại Đông Nam Á.
Lãnh đạo VNCH, đệ I và II Cộng Hòa, biết gì?
Đầu tháng 2,
1975, tôi đến Washington D.C. nhận nhiệm vụ Tùy Viên Lục Quân tại Tòa
Đại sứ VNCH, ưu tiên tìm hiểu và báo cáo về quân viện Mỹ cho VNCH lúc đó
đang lửng lơ. Một chị bạn nhà tôi, tên Dung, Đệ Nhị Tham Vụ, mời tôi đi
ăn lunch. Tò mò, tôi hỏi chị: “Tòa Đại Sứ mình vận động Quốc Hội Hoa Kỳ
ra sao?” Chị đáp: “Tôi vẫn bỏ tiền túi mời mấy ông dân biểu đi ăn
lunch”. Vậy thôi?
Tôi nghĩ, từ
Ngô Đình Diệm cho đến Nguyễn Văn Thiệu, các nhà lãnh đạo VNCH có thể ví
như những người đi buôn không vốn, không hiểu rành rọt về tổ chức và vận
hành của chính quyền Hoa Kỳ, cho nên không biết đến hiệu quả của
“lobby” và không giám hay không biết “chi” cho nỗ lực này vì không vốn
(?). Khoảng cuối thập niên 70 bỗng sì căng đan “Koreagate”, bùng nổ.
Điệp viên KCIA (Tình Báo Trung Ương Đại Hàn) Tongsun Park đã tung hàng
trăm ngàn đô mua chuộc ảnh hưởng của một số nhà lập pháp Hoa kỳ để chống
lại nguy cơ Nixon đòi rút quân khỏi Nam Hàn như đã làm ở Nam Việt Nam
khiến VNCH rơi vào tay CSBV. Ở đời ai dại, ai khôn? Thành thử, chúng ta
luôn luôn cầm dao đằng lưỡi để cho đối phương tuốt dao máu chẩy thành
vòi! Lý do: không nắm được những nguyên lý căn bản về Tình Báo Chiến
Lược để sử dụng nó hữu hiệu trong chiến tranh.
Có ai ý thức được rằng Hoa kỳ ào ạt đổ quân vào Việt Nam, thật ra, không phải là để bảo vệ nền độc lập và chủ quyền của VNCH?
Có ai ý thức
được rằng, với Hoa kỳ, không có quốc gia nào là bạn lâu dài và cũng
chẳng có nước nào là kẻ thù vĩnh viễn, mà chỉ có quyền lợi của Hoa kỳ là
vĩnh cửu?
Có ai biết
rằng: Trong thời gian CSVN làm xiếc đi giây giữa Liên Xô và Trung Cộng,
Trung Cộng coi VNCH là bạn và là đối trọng răn đe CS Bắc Việt? Với Trung
Cộng, Liên Xô và Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa (Bắc Việt) là hai kẻ thù
không đội trời chung? Mặc dầu Mao vẫn chi viện cho Hồ để đoạt hai chiến
thắng vang dội: Chiến dịch Biên giới 1950 và Điện Biên Phủ, 1954. Nhưng
cũng vì vậy mà Trung Cộng phải dè chừng. Cuộc chiến biên giới 1979 đã
chứng minh cho điều này khi Đặng Tiểu Bình muốn “dậy” cho Việt Nam một
bài học.
Tướng Nguyễn Ngọc Loan
CIA ra lệnh thủ tiêu Nguyễn Ngọc Loan
Tháng 4 ,
1968, Cố vấn trưởng Cảnh sát Quốc gia VNCH, J. Accompura (nguyên đại tá
Lục quân Hoa kỳ) được mời đến gặp vị tân Trưởng Trạm CIA (Station Chief)
tại VNCH, ông George Weisz đến thay thế ông Jorgensen. Không úp mở, ông
Weisz cho Accompura hay: “Chính phủ Hoa kỳ quyết định thủ tiêu Tổng
Giám Đốc Cảnh Sát QGVN, Thiếu tướng Nguyễn Ngọc Loan”.
Mặc dầu làm cố
vấn cho tướng Loan chưa được 2 năm, Accompura lại rất thân tình và cảm
mến ông. Accompura dấu kín chuyện CIA sẽ thủ tiêu ông, nhưng yêu cầu
tướng Loan không được rời khỏi Dinh Độc Lập và không được tham gia bất
cứ trận đánh nào có mục đích tiễu trừ các lực lượng MTGPMN tại trung tâm và ven đô Sài Gòn. Tướng Loan hứa xuông với Accompura cho qua chuyện, nhưng ông không ngồi yên.
Ở đâu có tiếng
súng AK-47 là ông nhào tới. Chỉ cần một tấm áo giáp, một khẩu M-16, với
12 băng đạn 5.56 ly vòng quanh bụng, đầu không nón sắt, chân dép cao
su, không lon không lá, tướng Sáu Lèo lâm trận… không coi mũi tên hòn
đạn của kẻ thù có kí lô nào. Một Don Quixote hay Triệu Tử Long? Có lẽ cả
hai gom một. Nhiều người coi ông như “người hùng đơn độc”, một phán xét
có phần cảm tính. Tôi quan niệm đơn giản: Ông là người chỉ huy biết
lãnh đạo. Lãnh đạo bằng cách làm gương, nghĩa là sát cánh cùng quân sĩ,
đồng lao cộng khổ, ngay nơi trận tiền.A true leader. Phải nói như thế. Như người Mỹ thường nói.
Đầu tháng 5,
1968, hay tin VC tràn về khu Tân Cảng, tướng Loan điều động 2 đại đội CS
Dã Chiến truy kích Tiểu đoàn Thủ-Biên (6) MTGPMN đang đốt nhà dân để
“chém vè” vì bị trực thăng võ trang UH-1B của Sư đoàn 25 BB Mỹ tấn kích
từ phía bắc cầu Sài Gòn. Hay tin tướng Loan dẫn CSDC ra Tân Cảng,
Accompura vội nhẩy xe Jeep Cảnh sát chặn đoàn xe của ông Sáu Lèo ở ngã
tư Dakao – Phan Thanh Giản và yêu cầu ông cùng về Tổng Nha tham dự buổi
họp Chương Trình Phượng Hoàng do W. Colby chủ tọa. Tướng Sáu Lèo từ
chối.
Ai bắn nát chân tướng Loan?
Tin tức loan
tải: 11 giờ 45 ngày 7 tháng 5, 1968, một tên VC núp dưới chân cầu Sài
Gòn bắn sẻ viên đạn “dum dum” (7) phá vỡ nát bắp chân trái tướng Nguyễn
Ngọc Loan.
Các bác sĩ giải phẫu tại Tổng Y Viện Cộng Hòa, sau khi khám vết thương, nêu thắc mắc và khẳng định:
- Đầu đạn phá
nát bắp chân trái tướng Loan không phải là “dum dum”. Nếu phải thì nó
phải để lại những mảnh li ti và dấu vết thuốc nổ khi đầu đạn nổ lần thứ
2.
- Súng xung kích AK-47 của CS Bắc Việt sử dụng ở miển Nam không trang bị loại đạn “dum dum”.
- Súng bắn sẻ CKC của Tiệp Khắc cũng không trang bị đầu đạn “dum dum”.
-
Đầu đạn AK-47 và CKC không phải là đạn xuyên phá. Loại đạn này chỉ tạo 1
lỗ nhỏ đường kính không quá 1 cm ở mặt trước vết thương, và mặt sau ít
khi có lỗ rộng quá 5 cm.
Có lẽ chỉ có cố vấn Accompura biết rõ viên đạn làm tan nát cuộc đời binh nghiệp của tướng Loan là loại đạn gì. Và sát thủ là ai?
2005: Sau rốt,
màn bí mật cũng được vén lên, bởi không ai khác là chính Accompura. Sát
thủ thi hành bản án tử hình tướng Loan là một hạ sĩ quan TQLC Hoa kỳ có
vợ Việt Nam, làm việc cho CIA Sài Gòn. Khẩu súng bắn lén tướng Loan là
M-16 gắn viễn vọng kính. Viên đạn M-16 cỡ 5.56 mm thuộc loại Flechette
(8). Chi tiết được biết thêm:
Sát thủ đứng
trên sàn trực thăng võ trang UH-1B, qua viễn vọng kính đã lẩy cò khi
chiếu môn thập tự [+] nhắm trúng đầu tướng Loan. May thay,“Thiên bất
dung gian”, người không thể giết người, chỉ có Trời mới giết được người.
Lúc sát thủ lẩy cò cũng vừa là lúc trực thăng gặp “air turbulence”
hụt hẫng đưa viên đạn trúng bắp chân trái Sáu Lèo đang gác trên thành
cầu thay vì trúng đầu ông. Viên đạn Flechette 5.56mm đã phá nát bấy toàn
thể bắp chân trái tướng Loan, cắt đứt gân lòng thòng và động mạch tiếp
tế máu cho bàn chân.
Bác sĩ Trưởng
Khoa Giải Phẫu Tổng Y Viện Cộng Hòa đề nghị cắt bàn chân bởi vì động
mạch đã bị phá nát, nếu không, một thời gian ngắn bàn chân sẽ bị hư
thối.
Tướng Loan yêu cầu, bằng mọi cách, giữ lại bàn chân trái cho ông.
Ảnh hưởng tiêu cực của tấm hình hay do lệnh CIA?
Bác sĩ cố vấn
trưởng Tổng Y Viện đề nghị đưa tướng Loan đến điều trị tại Bệnh viện
Quân Y Mỹ tại Long Bình. Giám đốc Bệnh viện từ chối vì không có khả năng
nối động mạch vi ti ở bắp chân.
Tướng Kỳ yêu
cầu MACV can thiệp với Hạm Đội 7 có tầu bệnh viện đón nhận tướng Loan để
chữa trị. Tầu Bệnh Viện Đệ Thất Hạm Đội từ chối.
Chính phủ VNCH yêu cầu Tòa Đại sứ Hoa kỳ giúp đỡ đưa tướng Loan đến Bệnh viện Jama trên đất Nhật. Tòa Đai sứ Hoa kỳ khước từ.
Không thể
trông cậy vào Đồng minh Hoa Kỳ giúp đỡ, tướng Kỳ cuối cùng nhờ đến Tòa
Đại sứ Úc chấp thuận cho tướng Loan được điều trị tại Canberra. Chính
quyền Canberra khước từ lời yêu cầu của VNCH, viện cớ dư luận dân chúng
Úc không đồng tình chứa chấp một kẻ giết tù binh chiến tranh không vũ
khí trong tay (9).
Tướng Loan
giải ngũ, trở lại đời sống dân sự. Tướng Kỳ mất một người vừa là bạn
thân, vừa là quân sư lỗi lạc trong cuộc đời tham chính của mình.
Hoa kỳ không
giết chết được Loan nhưng vẫn căm tức “Sáu Lèo” một lúc phá hỏng hai
giải pháp chính trị và quân sự của Mỹ tại Việt Nam. Họ quả quyết: “Nếu
Loan không rút 2 trung đội Cảnh sát Dã chiến bảo vệ Sứ quán ở đường
Thống Nhất thì không tài nào tổ đặc công C-10 của MTGPMN có thể xâm nhập
thành lũy tối cao và kiên cố nhất của Mỹ, làm ô danh siêu cường số 1
thế giới”.
Rất có lý,
nhưng Hoa kỳ vẫn khờ khạo khi tin rằng “nắm được Nguyễn Thị Bình, Trần
Bạch Đằng và Trần Văn Trà là chế ngự được thế thượng phong quân sự của
đối phương”. Sự thực phũ phàng là [như ngày nay ai cũng biết] Cuộc
Tổng Công Kích – Tổng Nổi Dậy Tết Mậu Thân 1968 của CSVN là thuộc
quyền quyết định và được điều khiển bởi Lê Đức Thọ, Bí Thư Trung Ương
Cục miền Nam và Võ Văn Kiệt, Bí thư Đặc ủy Khu ủy Sài Gòn – Chợ Lớn.
Lý do tướng
Loan rút 2 trung đội CSDC bảo vệ Tòa Đại Sứ Hoa Kỳ trên đường Thống Nhất
rất đơn giản và ngay thẳng. Đã là nơi sẽ diễn ra thương thảo giữa
MTGPMN và Hoa Kỳ, thì VNCH cần gì phải canh gác? Đó là trách nhiệm của
Mỹ.
Dự tính bắt cóc 6,000 người Mỹ làm con tin
Trong cuốn
“Khi Đồng Minh Tháo Chạy”, TS Nguyễn Tiến Hưng có đề cập đến một tình
huống mà ông gọi là “cực kỳ ê chề” (10) khi Tòa Đại sứ Mỹ phải đối diện,
nếu và khi QLVNCH hay Cảnh sát “nổi khùng” mà cưỡng chế cuộc di tản 6
ngàn người Mỹ và một số người Việt thân quen hay làm việc cho Mỹ khi
thấy những người này cứ kìn kìn ra đi, bỏ mặc họ cho số phận. Nên nhớ là
khi ấy, trong nội vi Sài Gòn, lực lượng Cảnh Sát Dã Chiến hầu như
nguyên vẹn cũng như một số đơn vị Nhẩy Dù và TQLC. Nếu có ai xúi dục và
thuyết phục được họ đó là biện pháp duy nhất có thể làm để Mỹ phải đem
quân tham chiến trở lại thì họ có khả năng quay súng bắn lại người Mỹ.
Do đó, Hoa kỳ cũng có kế hoạch phòng hờ (11) đối phó với tình huống này,
và Đại sứ Graham Martin cứ phải hành xử “bình chân như vại” cho tới
phút chót mới chịu ra đi sáng ngày 30 tháng 4.
Điều này lý
giải tại sao Mỹ phải cho ưu tiên di tản những phi công khu trục sang
Utapao, Thái Lan, bởi vì QLVNCH chỉ cần vài chiếc F-5 là có thể bắn hạ
những trực thăng di tản rơi rụng như sung. Trong tình huống này, TS Hưng
lập luận, VNCH sẽ tức khắc trở thành thù địch, và sẽ không thể có Eden
Center, Little Saigon hay Cabramatta vì không có người Việt nào được di
tản thì làm gì có cộng đồng Người Việt Hải Ngoại như ngày nay?
Ý tưởng “bắt
con tin” này có thể đã nhen nhúm trong đầu óc tướng Loan và có thể ông
đã bàn bạc với bạn bè hay người thân. Từ ý tưởng sang ý định và đem ra
thực hiện thì một người có uy tín và thành tích như ông có thể dễ dàng
thuyết phục bạn bè tướng lãnh và thuộc cấp trong Không Quân và Cảnh Sát
Quốc Gia. Nhưng ông đã không làm mặc dù Mỹ đã thù hận ông vì làm như thế
sẽ có hại cho cả hai bên Việt, Mỹ và CSVN sẽ là kẻ thủ lợi. Ý tưởng này
đã được một chuẩn úy KQVN kể lại cho Tòa Đại sứ Mỹ.
Từ cuối 1972,
tướng Loan đã được một người bạn chính trị gia làm việc ở Tòa Bạch Ốc
gửi thư riêng thông báo đầy đủ về kế hoạch rút quân của Hoa kỳ theo đúng
những điều khoản của Hiệp Định Paris ký kết giữa Lê Đức Thọ và H.
Kissinger ngày 27 tháng 1, 1973. Cuối thư, người bạn khuyên ông liên lạc
với TVQL Anh tại Sài Gòn để thu xếp việc di tản cho chính bản thân ông
và gia đình một khi Sài Gòn lọt vào tay các toán tiền tiêu của 6 sư đoàn
CSBV. Ông biết là Hoa Kỳ sẽ chẳng bao giờ đem quân trở lại tham chiến
tại miền Nam. Trừ phi…
Rốt cuộc, trưa
ngày 29 tháng 4, 75, tướng Loan và gia đình đã phải chật vật lắm mới
leo lên được một vận tải cơ C-130 và tới Utapao lúc 16:00 giờ chiều.
Trời kia đã bắt làm người có thân – Nguyễn Du
Để kết thúc câu chuyện, tôi xin nhường lời cho Eddie Adams:
“Ông Loan chạy
thoát Việt Nam trong thời gian Sài Gòn xụp đổ và đến Mỹ. Sau cùng ông
định cư ở vùng Burke, tiểu bang Virginia. Ông gắng mở một tiệm ăn ở
miền Bắc Virginia nhưng khi có người biết ông là chủ thì tiệm ăn đóng
cửa. Có những người phản đối đi vòng quanh khu đó hò hét để xả hơi nỗi
bất bình của họ một cách thời thượng, an toàn.
“Ông ta rất
đau yếu vì bị ung thư một thời gian. Và tôi nói chuyện với ông trên điện
thoại tôi muốn làm một cái gì đó. Tôi giải thích mọi điều và kể lại
chuyện tấm hình đã hủy hoại đời ông như thế nào thì ông ta chỉ muốn quên
chuyện đó. Ông nói thôi bỏ đi. Còn tôi thì không muốn ông bỏ đi như
vậy.”
“Thiếu tướng
Loan từ gĩa cõi đời cách đây một năm và một tháng (12). Ông để lại vợ
và năm đứa con. Phần lớn những bản tóm lược tiểu sử người quá cố cũng
giống như tấm ảnh đã hủy hoại đời ông, chỉ có một chiều và cố chấp”.
Adams gửi hoa phúng điếu với một tấm thiệp trên viết dòng chữ, “Cho tôi xin lỗi. Lệ đang ứa trong mắt tôi.”
Chu Việt
Tháng 5, 2012
Nguồn:
Tài liệu Ngành Tình Báo Điện Tử (SIGINT, Signal Intelligence) QLVNCH
Tuần báo TIME ngày 27 July, 1968
(1) Tuần báo TIME ra ngày July 27, 1968.
(2) Đại tá Của
bị trọng thương do trực thăng Mỹ bắn lầm quân bạn tại đường Khổng Tử,
Chợ Lớn trong cuộc Tổng Công Kích đợt II, tháng 5, 1968. Cũng bị sát hại
nơi đây là Trung tá Phó Quốc Trụ, Quận trưởng 5 Cảnh sát và Thiếu tá
Nguyễn Bảo Sĩ (em trai Trung tướng Nguyễn Bảo Trị) là bạn người viết bài
này.
(3) Trong thời
gian này, Trần Văn Trà là Tư lệnh CT-5 (CT = Công Trường hay Sư đoàn),
Nguyễn Văn Sỹ, Tư lệnh CT-7, và Đồng Văn Cống, Tư lệnh CT-9. Trần Bửu
Kiếm là Ủy viên Ngoại Giao của Trung Ương Cục Miền Nam (Cục R). Nguyễn
Thị Bình là Bộ trưởng Ngoại Giao, Dương Quỳnh Hoa, Bộ trưởng Y tế và
Nguyễn Hưũ Thọ, Chủ tịch Chính phủ Lâm thời MTGPMN.
(4) Loại két
sắt này chịu được nhiệt hỏa hoạn cao hàng ngàn độ C, phía trong được
trang bị chất phóng xạ radium chống chụp hình lén.
(5) CORDS
(Civil Operations and Revolutionary Development Support) là nỗ lực bình
định nông thôn miền Nam của Hoa Kỳ qua chương trình “Phượng Hoàng”.
(6) Thủ Dầu Một – Biên Hòa
(7) Đầu đạn
“dum dum” có sức công phá mạnh vì dãn nở hay nổ lần thứ hai khi xuyên
vào mục tiêu. Do đó, công ước The Hague đã cấm chỉ sử dụng.
(8) Đạn Flechette BF3, tốc độ cực nhanh có thể xuyên qua thiết giáp.
(9) Đại úy đặc
công Nguyễn văn Lém bị Cảnh Sát Dã Chiến bắt tại trại gia binh Thiết
Giáp Phù Đổng Thiên Vương, Gò Vấp, sau khi hắn đã tàn sát dã man tòan
thể gia đình Trung tá Tuấn, gồm cha mẹ và vợ con ông (trong đó có đứa 6
tuổi). Tuấn là bạn đồng khóa, rất thân với tướng Loan. Khi bị bắt, trong
mình Lém vẫn còn dấu khẩu súng lục K-54 bị áo che khuất. Lém không được
coi là tù binh chiến tranh theo Công Ước Geneva.
(10) Xem Chương 15: “Vào để giúp… Ra lại Bắn Nhau?”.
(11) Kế hoạch
phòng hờ này được TS Hưng lược trình trong Chương 15, Sách đã dẫn. Đại
sứ Martin gọi nó là “crazy” (điên rồ) và cực lực phản đối. Đại khái, nó
bao gồm 3 phương sách thay thế nhau để di tản 6,000 người Mỹ và một số
người Việt nhất định:
- Mỹ trải 2,000 TQLC dọc theo QL-15 (Sài Gòn – Vũng Tầu) giữ an ninh di tản.
- Mỹ thiết lập cầu không vận bằng C-130 và C-141 giữa Tân Sơn Nhất và Utapao.
- Mỹ thiết lập cầu không vận trực thăng giữa Sài Gòn và các quân vận hạm ngoài khơi Vũng Tầu.
(12) Ông mất ngày 14 tháng 7, 1998 ở tuổi 68.